Bệnh Lyme là do vi khuẩn có tên Borrelia burgdorferi gây ra và lây lan qua ve. Bọ ve bị nhiễm vi khuẩn bằng cách cho chuột bị nhiễm và các động vật nhỏ khác. Khi bọ ve bị nhiễm cắn động vật khác, nó có thể truyền vi khuẩn cho những con vật này. Bệnh Lyme lây truyền qua ve hươu (bọ ve chân đen) và một nhóm nhỏ bọ ve có liên quan chặt chẽ khác. Ve hươu nhỏ và có thể cắn động vật và con người mà không bị phát hiện.
Bệnh Lyme ảnh hưởng đến nhiều loài khác nhau, bao gồm chó, mèo và con người. Có tới 95% chó bị nhiễm B. burgdorferi không phát triển triệu chứng (người có nhiều khả năng bị bệnh Lyme hơn).
Không có bằng chứng cho thấy bệnh Lyme lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với động vật bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng bọ ve có thể cản trở một ngôi nhà trên vật nuôi của bạn và chuyển sang người trong gia đình.
Các yếu tố rủi ro
Những con chó dành nhiều thời gian ở ngoài trời, đặc biệt là trong rừng, bụi cây, hoặc những khu vực cỏ cao thường bị nhiễm bệnh Lyme. Tuy nhiên, ve có thể được đưa vào bãi trên các động vật khác, và chó có thể bị nhiễm bất cứ nơi nào ve tìm thấy.
Nhiễm trùng xảy ra trong mùa ve (thường là mùa xuân đến đầu mùa thu), nhưng thời gian giữa nhiễm trùng và sự xuất hiện của các triệu chứng bệnh Lyme có thể lên đến 2-5 tháng.
Bệnh Lyme được nhìn thấy trên khắp nước Mỹ và ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Tại Hoa Kỳ. Bệnh Lyme phổ biến nhất ở vùng Đông Bắc nước Mỹ, cùng với bờ biển Thái Bình Dương và ở miền Trung Tây.
Dấu hiệu của bệnh Lyme
Khi các dấu hiệu lâm sàng phát triển, chúng có thể thoáng qua hoặc tái phát và có thể bao gồm:
- Sốt.
- Giảm sự thèm ăn.
- Các khớp bị sưng, đau (chó có thể không muốn di chuyển).
- Lameness - khập khiễng có thể nhẹ lúc đầu, sau đó xấu đi, và cũng có thể chuyển từ chân này sang chân khác.
- Lethargy.
- Sưng hạch bạch huyết.
Một số con chó mắc bệnh Lyme có thể bị bệnh thận.
Các dấu hiệu của bệnh thận có thể bao gồm trầm cảm, nôn mửa , chán ăn, và khát nước và đi tiểu nhiều hơn (đôi khi thiếu đi tiểu). Chó phát triển bệnh thận có thể bị bệnh nặng và có thể không đáp ứng với điều trị.
Bệnh thần kinh (thay đổi hành vi, co giật) và biến chứng tim , đôi khi được thấy ở người, hiếm gặp ở chó.
Chẩn đoán bệnh Lyme
Việc chẩn đoán bệnh Lyme phải dựa trên sự kết hợp của các yếu tố, bao gồm cả lịch sử (tiếp xúc với dấu), dấu hiệu lâm sàng, tìm kháng thể đối với vi khuẩn B. burgdorferi và phản ứng nhanh với điều trị bằng kháng sinh.
Xét nghiệm kháng thể dương tính không đủ để tự chẩn đoán, bởi vì không phải tất cả những con chó tiếp xúc với B. burgdorferi đều bị bệnh, và các kháng thể có thể tồn tại trong máu trong một thời gian dài sau khi tiếp xúc.
Các xét nghiệm chẩn đoán khác, như xét nghiệm máu và nước tiểu, chụp X-quang, và lấy mẫu chất lỏng khớp, có thể được thực hiện để kiểm tra các dấu hiệu của bệnh thận và loại trừ các tình trạng khác có dấu hiệu và triệu chứng tương tự.
Điều trị bệnh Lyme
Điều trị bằng thuốc kháng sinh thường làm tăng nhanh các triệu chứng (thuốc kháng sinh sẽ được tiếp tục trong vài tuần).
Điều trị có thể không hoàn toàn rõ ràng vi khuẩn, nhưng tạo ra một trạng thái không có triệu chứng (tương tự như tình trạng ở chó không có triệu chứng từ nhiễm trùng).
Bệnh thận có thể phát triển một thời gian sau khi nhiễm trùng ban đầu, vì vậy bạn nên thường xuyên kiểm tra lượng protein dư thừa trong nước tiểu của những con chó mắc bệnh Lyme. Nắm bắt bệnh thận sớm trong khóa học của nó cung cấp tiên lượng tốt nhất. Nếu có bệnh thận, thì cần dùng thêm thuốc kháng sinh cùng với thuốc bổ sung để điều trị bệnh thận.
Ngăn ngừa bệnh Lyme
- Đánh dấu kiểm soát là cực kỳ quan trọng cho công tác phòng chống bệnh Lyme (và nhiều bệnh khác có thể lây truyền qua ve). Kiểm tra chó hàng ngày để tìm bọ ve và loại bỏ chúng càng sớm càng tốt, vì bọ ve phải ăn ít nhất 12 giờ (có thể là 24-48 giờ) trước khi truyền vi khuẩn gây bệnh Lyme. Điều này đặc biệt quan trọng trong mùa cao điểm và sau khi con chó của bạn dành thời gian trong bụi rậm hoặc cỏ cao (hãy cân nhắc tránh những khu vực này trong mùa đánh dấu). Các sản phẩm ngăn ngừa bọ ve như phòng ngừa ký sinh trùng hàng tháng (ví dụ: Frontline®, Revolution® ) hoặc ve cổ (ví dụ, Preventic®) có thể được sử dụng; hãy chắc chắn làm theo lời khuyên của bác sĩ thú y khi sử dụng những sản phẩm này. Giữ cỏ và bàn chải được tỉa gọn trong sân của bạn, và trong những khu vực mà ve là một vấn đề nghiêm trọng, bạn cũng có thể xem xét xử lý sân của bạn cho ve.
- Vắc-xin cho bệnh Lyme: Chủng ngừa bệnh Lyme là một chủ đề gây tranh cãi và là một vấn đề cần thảo luận sâu sắc với bác sĩ thú y của bạn. Nhiều chuyên gia không khuyên bạn nên chủng ngừa thường xuyên vì rất ít con chó phát triển các triệu chứng của bệnh Lyme, và khi bệnh Lyme xảy ra ở chó, nó thường được điều trị dễ dàng. Ngoài ra, do viêm khớp và các vấn đề về thận liên quan đến bệnh Lyme ít nhất một phần liên quan đến đáp ứng miễn dịch với vi khuẩn (chứ không phải là chính vi khuẩn), có lo ngại rằng việc chủng ngừa có thể gây ra các vấn đề. Chủng ngừa cũng không hiệu quả 100 phần trăm, và nó chỉ hữu ích ở những con chó chưa từng tiếp xúc với B. burgdorferi . Tuy nhiên, việc chủng ngừa trước khi tiếp xúc có thể giúp ngăn ngừa những con chó mắc bệnh Lyme và cũng ngăn ngừa chúng trở thành một vật mang vi khuẩn. Khi sử dụng vắc-xin, thường nên bắt đầu tiêm phòng cho chó như những chú cún con (ví dụ, vào khoảng 12 tuần, với tăng cường 2-4 tuần sau đó). Vắc-xin không cung cấp khả năng miễn dịch lâu dài, vì vậy việc tiêm chủng lại hàng năm (lý tưởng trước mùa đánh dấu) là cần thiết. Dạng tái tổ hợp của vắc-xin được coi là ít có khả năng gây tác dụng phụ hơn dạng vi khuẩn của vắc-xin.
Xin lưu ý: bài viết này chỉ được cung cấp cho mục đích thông tin. Nếu thú cưng của bạn đang có dấu hiệu bị bệnh, hãy hỏi ý kiến bác sĩ thú y càng nhanh càng tốt.